III
Hai ngày sau, Hoàng đế Lam lại một lần nữa thân chinh cùng hạm đội. Tìm kiếm hết giờ này đến giờ khác, họ lại phát hiện thuỷ quái vào giữa trưa, nhưng khi hạm đội chuyển hướng và tiếp cận con thuỷ quái, nó đột nhiên lặn nhanh xuống và biến mất. Khi hoàng hông đến, họ đành quay về cảng, con thuỷ quái bây giờ chủ động tránh mặt hạm đội, và chỉ còn hoạt động về đêm. Cứ vài tuần, trong bóng tối của màn đêm nó lại bất ngờ trồi lên và tấn công làng mạc và thị trấn ven bờ. Tình thế lại một lần nữa rơi vào bế tắc. Hoàng đế Lam chẳng thể nghĩ ra cách nào để hạm đội có thể giao chiến với thuỷ quái cả, nó đã học hỏi.
Một tháng sau, khi một cơn bão đang gào rú trên trời đêm, phòng của Hoàng đế Lam vẫn sáng đèn, ngồi sụp trên ghế và gác thái dương lên tay mình, vị hoàng đế ngồi nghe tiếng mưa nặng hạt đập và khung cửa sổ và tiếng sấm rền vọng đến từ xa, mắt người nhìn vào hư không, tràn đầy suy nghĩ. Trên chiếc bàn nhỏ bên cạch người là một khay thức ăn bỏ dở, cả tháng qua người ăn rất ít do lao tâm vì nỗ lực kiểm soát thiệt hại và tìm ra cách nào đó để diệt con thuỷ quái với rủi ro tối thiểu về thiệt hại nhân mạng. Bỗng, một giọng nói nhẹ nhàng phá vỡ bức màng im lặng trong phòng, một giọng nói du dương và êm dịu của một phụ nữ phát ra từ chiếc hộp gỗ trên giường của hoàng đế. Tiếng nói của Nữ hoàng Aucelen gọi chồng mình từ chiếc gương phép thuật. Hoàng đế Lam liền lấy chiếc gương ra và đặt lên bàn.
“Lam, chàng trông gầy đi đấy, chàng có khoẻ không đấy? ăn uống đầy đủ không vậy?” Nữ hoàng Aucelen lo lắng.
“À… chỉ là… ta chỉ… làm việc hơi quá sức một chút thôi… chỉ là… ta đang gặp khó khăn trong việc săn lùng thuỷ quái… nhưng nàng đừng lo, ta vẫn ổn. Sao nàng lại gọi ta?” -Hoàng đế Lam xoa trán một cách mệt mỏi.
“Về việc những mẫu mô mà chàng gửi,” Nữ hoàng Aucelen nói.
“Nàng phân tích chúng rồi à? Kết quả thế nào? Có khớp với nghi ngờ của ta không?” Hoàng đế Lam hỏi.
“Ừm, tin vui là, nó không khớp,” Nữ hoàng Aucelen mỉm cười.
“Hầy… nhẹ cả người” -Hoàng đế Lam thở dài.
“Nhưng vẫn còn một dấu hỏi là, con quái này từ đâu đến?” Hoàng đế Lam tự hỏi.
“Ừm, sau khi phân tích mẫu mô mà chàng gửi, thiếp tìm thấy rằng, con thuỷ quái này vốn là một con cá chép, nhưng vấn đề là, những mẫu mô ấy có chứa một hàm lượng Quasium khá là cao, và cả dấu vết của phép thuật nữa,” Nữ hoàng Aucelen nói.
“Ý nàng là… ai đó… bằng cách nào đó… đã làm một con cá chép ăn bột Quasium, rồi dùng phép thuật làm cho nó đột biến thành con quái vật đó? Nhưng tại sao? Bằng cách nào? Chả phải Quasium ở dạng tinh khiết rất độc khi ăn phải sao?” Hoàng đế Lam nói
“Hừm… không hẳn… thiếp không chắc lắm về việc bằng cách nào mà con cá tiếp xúc với Quasium, nhưng việc ấy có thể lý giải tại sao con thuỷ quái có khả năng kháng phép thuật. Ý thiếp là khoảng phép thuật, không phải là ai đó đã ếm bùa phép lên nó và đúng hơn là nó bị phơi nhiễm với một trường phép thuật, thiếp nghĩ có thể là… từ rừng Lục Bảo…” -Nữ hoàng Aucelen ngừng giữa chừng.
Trong một tích tắc, mí mắt của nàng cụp xuống và ánh sáng trong con ngươi đượm buồn khi nàng nhắc đến cái tên đó. “Rừng Lục Bảo”, một cái tên chỉ còn được nhớ đến bởi các Tiên Nhân, nhưng còn đối mới những cư dân còn lại của lục địa Varlaurea, nơi ấy được biết đến với cái tên “Rừng Cười.” Nhưng những cơn sóng triều, ký ức tràn ngập tâm trí nàng, ký ức về những thứ đã qua từ lâu, của những sự kiện từ nhiều năm trước, hàng thế kỉ trước và ký ức về những kẻ đã không còn bước đi trên cõi đời này, nhưng đối với nàng nó như mới xảy ra ngày hôm qua. Dù vẻ mặt nàng chỉ khẽ thay đổi, nhưng chẳng cần một lời nào Hoàng đế Lam vẫn nhận ra và người biết rõ điều gì đang xảy ra trong tâm trí vợ mình, tim người đau nhói khi nhìn thấy cặp mắt xanh ấy tràn đầy nỗi buồn như thế. Nhưng trước khi ngài kịp nói gì, Nữ hoàng Aucelen hít một hơi sâu và nở một nụ cười ấm áp trên khuôn mặt của nàng.
“Nàng không sao chứ, Aucelen? Ta biết nơi đó có ý nghĩa thế nào với nàng, nếu…” Hoàng đế Lam thì thầm.
“Thiếp không sao, Lam, cảm ơn chàng,” Nữ hoàng Aucelen cười.
“Nào, giờ quay lại chủ đề của chúng ta. Như thiếp đã nói, con thủy quái trở thành như vậy là do nó đã phơi nhiễm với Quasium và năng lượng phép thuật ở rừng Lục Bảo. Nó không có liên quan gì đến những nghi ngờ của chàng,” Nữ hoàng Aucelen nói.
“Hừm… nếu là vậy thì…” –ngã người vào ghế, Hoàng đế Lam nhìn vào hư không, tay trái liên tục vuốt râu.
“Lam à, chàng làm ơn đừng làm gì liều lĩnh đấy,” Nữ hoàng Aucelen nói
“Cái gì? Liều lĩnh? Ta à? Nàng đang nói gì vậy?” –Hoàng đế Lam giật mình, bung ra khỏi dòng suy nghĩ của mình.
“Mười ba năm, thiếp đã chung sống cùng chàng, Lam à. Chàng nghĩ thiếp không biết chàng đang nghĩ gì mỗi khi chàng vuốt râu bằng tay trái như thế à” -Nữ hoàng Aucelen thở dài- “Lam à, chàng là hoàng đế của Varlann, chàng không thể tự giải quyết mọi việc bằng cách nhắm mắt lao đầu vào nguy hiểm như vậy. Chàng có…”
“Biết rồi, biết rồi, ta có trách nhiệm và cả đế chế cần ta,” Hoàng đế Lam cắt ngang vợ mình.
“Và thiếp nữa, Lam. Thiếp cũng cần chàng, thiếp sẽ sống ra sao khi không có chàng đây?” Nữ Hoàng Aucelen nói.
“Ta xin lỗi, ta hứa sẽ không làm gì ngu ngốc,” Hoàng đế Lam thủ thỉ.
Nữ hoàng Aucelen thở dài và nhìn chồng một cách trìu mến.
“Vậy thôi, chàng còn cần gì nữa không, Lam?”
“À, cái tên giáo chủ đó, ta nên làm gì với hắn đây? Nàng có cần mẫu mô của hắn không?” Hoàng đế Lam hỏi.
“Hắn à? Thiếp nghĩ chàng nên đưa hắn về kinh thành đã, thiếp sẽ chuẩn đoán hắn để biết chắc rằng liệu hắn chỉ ảo tưởng… hoặc là tệ hơn, nếu là trường hợp tệ nhất thì thiếp sẽ cho đồng bào của mình tiếp quản hắn,” Nữ hoàng Aucelen nói.
“Được rồi, vậy hẹn gặp lại nàng ở kinh thành, tạm biệt, Aucelen,” Hoàng đế Lam chào từ biệt vợ mình, rồi đặt chiếc gương trở lại cái hộp gỗ, ngồi trên giường và nhìn cơn bão ngoài cửa sổ, gãi gãi sừng ngài lẩm bẩm, “xin lỗi nàng Aucelen.”
Đến ngày hôm sau, Hoàng đế Lam dậy sớm hơn thường lệ, trong khi chờ bữa sáng được đem đến, Hoàng đế Lam đọc lại những báo cáo điều tra và vây bắt lũ dị giáo của ngài Min, và tìm thấy trong những báo cáo đó có một vài chi tiết đáng chú ý. Những thứ ấy đã cho ngài ý tưởng, một ý tưởng mà có thể giúp cho người tiêu diệt con thủy quái đó mà không tốn một sinh mạng nào. Thế nên, người cho mời ngài Min dùng bữa sáng và nói chuyện với mình, để xác nhận những chi tiết đó. Sau đó, hoàng đế đi xuống khu bếp của tư dinh và lệnh cho tổ bếp chuẩn bị cho người một giỏ thức ăn, rồi đem giỏ thức ăn ấy và đi xuống khu vực ngục tối để viếng thăm tên giáo chủ một chuyến.
Ở dưới ngục tối, ngay khi gặp các cai ngục, hoàng đế lệnh cho họ đem tên giáo chủ đến phòng gác. Những cai ngục thì thấy mệnh lệnh này thật kì quái, vì chẳng có ai có thể sống sót nổi hơn một đến hai tuần trong ngục tối chứ đừng nói đến là hơn cả tháng. Nhưng trước sự ngạc nhiên của các cai ngục, bằng cách nào đó, tên giáo chủ vẫn còn sống dù hơn một tháng rồi mà chả có mấy nước và thức ăn nào. Khi tên giáo chủ được đưa đến trước mặt người, Hoàng đế Lam lệnh cho các cai tù để ngài được một mình với tên giáo chủ.
Gã tiện nhân khốn khổ ấy, giờ chẳng khác gì một bộ da căng lên cái khung xương. Mặt hắn hốc hác, cùng với cái mặt đã dài với quần thâm và những nếp nhăn dưới mắt, làm hắn trông hệt như những con ma đói thường thấy trong những tranh vẽ mô tả về âm giới. Mắt hắn lún sâu vào trong sọ, nhưng bên trong hai hốc mắt tối ấy, mắt hắn vẫn có ánh sáng bên trong chúng, một thứ ánh nhìn điên dại, ma quái làm người khác nổi hết cả da gà. Ngay khi Hoàng đế Lam đặt giỏ thức ăn lên bàn, tên giáo chủ liền cắm những ngón tay da bọc xương của hắn vào giỏ thức ăn, và ngốn sạch toàn bộ không một chút chần chừ chỉ trong một nháy mắt.
“Cảm thấy khá hơn rồi chứ?” Hoàng đế Lam hỏi.
“Chuyện này là sao? Tại sao ngươi lại ở đây? Tại sao ta ở đây? Chỗ thức ăn này là thế nào?” Tên giáo chủ hỏi.
“Ừm… chuyện là… ngài thấy đấy, trong tháng qua trẫm đã suy nghĩ khá nhiều về… những gì ngài đã nói vào đêm đó… giờ trẫm đã ngộ ra sự thông thái trong lời nói của ngài và cảm thấy vô cùng tội lỗi… trẫm chỉ… trẫm hy vọng là ngài có thể giúp trẫm sửa sai,” Hoàng đế Lam nói.
“Vậy là cuối cùng ngươi cũng nhận ra lỗi lầm của mình và muốn cầu xin các cổ thần tha thứ ư?” -một nụ cười kì quái hiện lên khuôn mặt của tên giáo chủ.
“Vâng, thưa đức ngài. Và trẫm sẽ ban chỉ thông báo rằng việc thờ cúng các cổ thần sẽ trở thành quốc giáo của toàn đế chế. Và ngài sẽ trở thành trưởng tư tế của thần điện đầu tiên để giúp chúng dân quay về chính đạo,” Hoàng đế Lam nói.
“Tốt, tốt, rất tốt con của ta. Ý định của ngươi là rất tốt, nhưng ta e rằng như thế thì vẫn chưa đủ để chuộc tội của ngươi,” tên giáo chủ nói.
“Vậy thì… làm sao để trẫm sám hối đây, thưa đức ngài?” Hoàng đế Lam hỏi.
“Một lễ hiến tế phải được thực hiện, đem cho ta 100 đồng nam và 100 đồng nữ, ta sẽ dâng hiến vật lên chư thần thông qua sứ giả của họ,” tên giáo chủ nói.
“Dâng hiến vật thông qua sứ giả của các cổ thần? ý ngài là con quái… con đại ngư ấy à? Liệu nó sẽ nghe lời triệu gọi của ngài không?” Hoàng đế Lam nói.
“Nó sẽ nghe, con của ta, hãy có niềm tin,” tên giáo chủ nói.
“Cám ơn đức ngài, tất cả sẽ được lo liệu,” Hoàng đế Lam mỉm cười.
Sau đó, Hoàng đế lam lệnh cho các cai ngục rằng tên giáo chủ sẽ được tắm rửa sạch sẽ, ăn vận chỉnh tề, và được đối xử như khách quý của triều đình. Rồi người quay trở về phòng mình và gọi ngài Buh Huy và Đô đốc Huan Tah đến bàn kế hoạch hành động. Năm ngày sau, Hoàng đế Lam báo với tên giáo chủ rằng vật hiến tế và tàu lễ đã được chuẩn bị xong.
Vào ngày hôm sau, khi mặt trời vẫn chưa mọc và sương sớm lành lạnh vẫn vươn vấn trên mặt hồ Kaoren. Họ lên một con tàu lớn với ba cột buồm và bày biện một bàn tế lễ trên boong. Con tàu này sẽ dùng làm tàu lễ, trên đó là Hoàng đế Lam, tên giáo chủ, ngài Buh Huy và Đô đốc Huan Tah cùng với ba mươi thuỷ thủ để điều khiển tàu. Còn các “tế vật” thì đi trên một con tàu khác, một tàu nhỏ hơn có mái che, cờ xí trang hoàng lộng lẫy và buông rèm bốn phía. Dẫu phần lớn boong tàu được che kín bởi lớp rèm tre nhưng chúng mỏng vừa đủ để ai cũng có thể nhìn thấy những người bị hiến tế đang ngồi bên trong, thân mình mặc áo trắng và mũ bao bố, phục trang của tang lễ.
Con tàu hiến tế đi ngay phía sau tàu lễ của Hoàng đế Lam. Họ cứ thế mà đi, hướng đến khu vực nước sâu, cho đến khi mặt trời đã dâng cao khỏi đường chân trời rồi thả neo, con tàu tế vật thì thả neo phía trước tàu lễ chừng mười lia. Sau khi các thuỷ thủ vận hành tàu tế vật đã lên tàu lễ, tên giáo chủ bắt đầu thực hiện nghi lễ của hắn. Hắn đứng trước bàn thờ và tụng một cái gì đó rất kì lạ, nó không phải là cổ ngữ hay bất kì ngôn ngữ nào của những giống dân sống trên lục địa Varlaurea. Hắn cứ tiếp tụng như thế suốt năm phút liền. Sau khi tụng xong, hắn dùng dao cắt tay và trộn vài giọt máu của hắn vào một tô bột Quasium, rồi hắn tiến đến nơi mũi tàu và ném tô bột về phía tàu tế vật, nhắm mắt lại, hắn đứng đấy trong im lặng với hai tay giơ ngang mặt, tay trái đặt lên trên tay phải với lòng bàn tay hướng vào trong, giống như cách mà người từ Chihan thi lễ chào.
Ba mươi phút trôi qua, chẳng có gì xảy ra, Hoàng đế Lam đi đi lại lại sau bàn lễ, mắt dán vào tên giáo chủ, như một con thú đói chờ đợi một cơ hội để vồ mồi. Rồi hoa tiêu trên đỉnh cột buồm nhìn thấy sự di chuyển dưới mặt nước ở phía mạn phải của tàu, mọi người liền chạy về phía mạn phải và thấy một cái bóng đỏ thẫm đang tiến đến từ đằng xa.
“Hỡi sứ giả vĩ đại của các cổ thần xa xưa. Ta nhân đây dâng lên người những tế vật này như một lời cầu xin ân xá cho những tội lỗi mà hoàng đế đã phạm phải. Xin hãy chấp nhận những lễ vật hèn mọn này mà nguôi cơn giận,” tên giáo chủ hô lớn.
Comments (0)
See all